Chi tiết tin

A+ | A | A-

Bảo tồn, phát huy giá trị của rừng và các hệ sinh thái

Người đăng: SuperUser Account Ngày đăng: 16:11 | 11/12/2023 Lượt xem: 86

Trước thảm họa do biến đổi khí hậu, nguy cơ diện tích rừng tự nhiên ngày càng thu hẹp, các hệ sinh thái bị phá hủy đa dạng sinh học, suy giảm nghèo kiệt cùng với nạn ô nhiễm môi trường ngày càng trầm trọng. Chính vì vậy, việc trồng rừng và sử dụng bền vững hệ sinh thái đang góp phần phát triển nền kinh tế xanh tại Việt Nam. Vusta.vn đã có cuộc trao đổi với GS.TSKH.Đặng Huy Huỳnh – Phó Chủ tịch Hội Bảo vệ Thiên nhiên và Môi trường Việt Nam.

GS.TSKH.Đặng Huy Huỳnh (Ảnh internet)

 

PV: Các hệ sinh thái tự nhiên rừng trên đất liền, đất ngập nước, vùng biển đảo bị suy giảm nghèo kiệt dần trong khi dân số cứ tăng, hiện tượng biến đổi khí hậu ngày càng đe dọa đến sự sống còn của nhân dân, vậy chúng ta đã có biện pháp để ngăn chặn điều đó, thưa GS?

 

GS.TSKH.Đặng Huy Huỳnh: Hiện nay, Đảng và Nhà nước đã đề ra chủ trương xây dựng chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2011-2020 và tầm nhìn đến 2030. Cùng với việc thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ VII Ban chấp hành Trung ương khóa XI về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường nhằm thực hiện đường lối và chủ trương đúng đắn đó thì việc tổ chức phục hồi phát triển trồng rừng và bảo vệ hệ sinh thái tự nhiên như là một trong những giải pháp quan trọng góp phần xây dựng nền kinh tế xanh tăng trưởng xanh trong phát triển bền vững ở Việt Nam.

 

PV: Việt Nam là một trong những quốc gia trên thế giới có lợi thế về rừng, về đa dạng các hệ sinh thái, phong phú các thành phần thực vật tự nhiên và nuôi trồng, đây có phải là lợi thế để phát triển nền kinh tế xanh, thưa GS?

 

GS.TSKH.Đặng Huy Huỳnh: Theo các nhà khoa học cho đến nay đã phân loại thống kê được 16.428 loài thực vật, trong đó có 4.528 loài thực vật bậc thấp và 11.458 loài thực vật bậc cao có mạch, trong đó có nhiều lâm sản ngoài gỗ có giá trị kinh tế, đặc biệt với gần 4.000 loài cây có giá trị dược liệu. Bên cạnh các loài thực vật hoang dã, Việt Nam là một trong những trung tâm có nhiều giống cây trồng nhất trên thế giới với khoảng 1.000 loài cây trồng, đây chính là cơ sở để phát triển nền kinh tế xanh ở Việt Nam.

 

Về động vât hoang dã, như đã thống kê được khoảng 21.125 loài. Trong đó có 7.750 loài côn trùng, 1.100 loài cá nước ngọt, 2.038 loài cá biển, 162 loài lưỡng cư, 316 loài bò sát, 840 loài chim, 310 loài thú, 15 loài thú biển và hàng chục ngàn loài động vật không xương sống phân bổ trong các hệ sinh thái rừng trên đất liền, rừng ngập mặn, đất ngập nước và vùng biển. Những năm gần đây có rất nhiều loài thực vật, động vật, côn trùng, động vật đất, các loài thủy sinh... được phát hiện thêm chưa được thống kê. Nhưng rõ ràng tài nguyên rừng tự nhiên cũng như rừng trồng là vật chất quan trọng, là tiềm năng rất lớn trong quy hoạch phát triển nền kinh tế xanh, tăng trưởng xanh, như trên nền tảng của nguồn vốn rừng tự nhiên và rừng trồng mà trong những năm qua Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Hội nông dân Việt Nam, Ủy ban dân tộc miền núi... đã quy hoạch phát triển hệ thống trang trại với khoảng 113.730 trang trại, trong đó 17.721 trang trại chăn nuôi; 55.529 trang trại cây trồng; 2.661 trang trại cây lâm nghiệp; 34.202 trang trại nuôi trồng thủy sản; 4.630 trang trại kinh doanh tổng hợp. Tất cả các trang trại phân bố đều ở mỗi miền của đất nước, đặc biệt vùng đồng bằng sông Cửu Long và đồng bằng sông Hồng có nhiều trang trại có quy mô lớn. Cùng với trang trại nuôi trồng, lưu giữ nguồn gen, thực vật, động vật Việt Nam đang có hệ thống các khu rừng đặc dụng 164 khu bao gồm 30 vườn Quốc gia, 58 khu dự trữ thiên nhiên, 11 khu bảo tồn loài, 45 khu bảo vệ cảnh quan, 20 khu rừng nghiên cứu khoa học cùng với 45 khu bảo tồn vùng nước nội địa và 16 khu bảo tồn biển và 5 khu ramsar, 5 vườn di sản Asean, 8 khu bảo tồn sinh quyển, 2 khu di sản thiên nhiên thế giới và nhiều các khu rừng trồng trong các hộ gia đình, dòng tộc, đình chùa, trường học, công viên... Đây chính là tiềm năng làm nền tảng cho việc phát triển nền kinh tế xanh.

 

PV: GS có thể cho biết tầm quan trọng của rừng đối với sự phát triển nền kinh tế xanh Việt Nam?

 

GS.TSKH.Đặng Huy Huỳnh: Rừng tự nhiên và rừng trồng ở Việt Nam là một tài sản vô giá đối với cộng đồng, là nền tảng quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ môi trường. Thực vậy, các khu rừng tự nhiên hay khu rừng do con người trồng ngay từ thuở sơ khai cho đến thời kỳ công nghiệp hóa hiện đại hóa không những góp phần duy trì sự cân bằng hóa học trên trái đất làm ổn định khí hậu, mà chúng còn cung cấp trực tiếp hoặc gián tiếp các sản phẩm cần thiết phục vụ cho mọi phúc lợi của xã hội, góp phần bảo đảm an ninh sinh thái và an ninh môi trường, là nền tảng phát triển một nền kinh tế xanh – tăng trưởng xanh ở Việt Nam hiện nay và trong tương lai.

 

Chức năng và giá trị của các loại, kiểu rừng, các hệ sinh thái của Việt Nam là vô cùng to lớn, có vị trí vô cùng quan trọng trong chiến lược phát triển nền kinh tế xanh bền vững. Nhưng điều đáng báo động là diện tích rừng, tài nguyên động vật, thực vật trong các hệ sinh thái Việt Nam đã và đang bị suy giảm, nghèo kiệt thậm chí là mất mát do các quy hoạch phát triển kinh tế chạy theo lợi trước mắt không chú ý hoặc lãng quên lợi ích lâu dài, không dựa trên luận cứ khoa học – gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng từ thành thị đến nông thôn, ảnh hưởng đến sức khỏe của cộng đồng, gây xáo trộng không có lợi đến sự khỏe mạnh của rừng, của các hệ sinh thái. Chính vì vậy, trồng rừng và bảo tồn hệ sinh thái tự nhiên và nhân tạo ở Việt Nam là xây dựng các mô hình phát triển nền kinh tế xanh trên mọi miền đất nước, góp phần vào chương trình xây dựng nông thôn mới, trong xóa đói giảm nghèo thì cần có chủ trương chính sách thích đáng đầu tư về khoa học nghệ, hỗ trợ về tài chính cho việc trồng và phát triển rừng bền vững trong thời gian tới.

 

Bài: Băng Thanh,vusta.vn

Các tin mới hơn:

Các tin cũ hơn:

Bảo vệ Người tiêu dùng (NTD) đang trở thành một vấn đề ngày càng được cả cộng đồng xã hội quan tâm, là một tác nhân kinh tế ngày càng trở nên quan trọng trong bối cảnh ̉ phát triển...